Nhiễm HIV lúc mang thai

Theo số liệu Thống kê 6 tháng đầu năm 2013 của Bộ Y tế, những người nhiễm HIV tại Việt Nam là 243/100.000 dân số; có 65.133 trường hợp tử vong do aids .

“Con nhỏ là cái neo giữ lấy cuộc đời người mẹ…” (Sophocles – Pheadra). đặc trưng là khi người mẹ có vấn đề về sức khỏe, liên quan vào sinh mệnh và ngày mai của cả mẹ và con – một trong số đó chính là nhiễm HIV (Human immunodeficency virus), Quyết định giữ lại đứa trẻ là một quyết định gan góc và đầy trách nhiệm .
Làm gì khi người bệnh có thể nhận biết nhiễm HIV lúc có thai?

Theo số liệu Thống kê 6 tháng đầu năm 2013 của Bộ Y tế, số lượng người nhiễm HIV tại Việt Nam là 243/100.000 dân số; có 65.133 trường hợp tử vong do sida . Người nhiễm HIV tập trung chính yếu trong nhóm 30 – 39 tuổi – thuộc độ tuổi sinh sản. Tại Hoa Kỳ, theo ước lượng của trọng tâm Kiểm soát và Phòng chống dịch bệnh (Centers for Disease Control and Prevention – CDC), mỗi năm có hơn 40.000 trường hợp mới mắc nhiễm HIV và khoảng 138 trẻ sơ sinh lây nhiễm trong khoảng mẹ. nếu được Nhận biết sớm, tiêu dùng thuốc kháng virút (antiretroviral treatment – ART) cho bà mẹ và trẻ lọt lòng có lẽ sẽ giảm những người lây truyền cho trẻ từ 25% xuống còn hai % , thậm chí thấp hơn. ngay lập tức cả lúc chỉ sử dụng zidovudine trong chuyển dạ và 24 – 48 giờ đầu sau sinh cũng có khả năng giảm đáng kể số người nhiễm cho trẻ, số lượng người lây truyền từ người mẹ sang người con chưa đến 10%. Chính vì một số tác nhân này, việc giữ lại đứa trẻ lúc bà mẹ người bệnh có thể nhận biết mình nhiễm HIV là hoàn toàn có lẽ sẽ . Vấn đề còn lại là thực hiện một số thủ thuật nào để phòng tránh rủi ro cho trẻ trong suốt thai kỳ và đứa bé chào đời mạnh khỏe .

Có cần phải có phải xét nghiệm tầm soát HIV cho tất cả bà mẹ mang thai?

Câu trả lời là “Có”, tất cả một số thai phụ đều cần xét nghiệm tầm soát nhiễm HIV như một xét nghiệm thường quy trong thai kỳ, bất kể đội ngũ cán bộ bác sỹ khả năng (ACOG, 2011). giả dụ thai phụ khước từ xét nghiệm vì đã có một kết quả âm tính trước ấy , cần giải thích ý nghĩa và tầm quan trọng của việc xét nghiệm lại trong thai kỳ này. Theo khuyến nghị của Hiệp hội Sản Phụ khoa Hoa Kỳ (AGOC), xét nghiệm tầm soát được vận dụng sớm ngay tức khắc khi chẩn đoán xác định có thai, trong 3 tháng đầu thai kỳ. chỉ định xét nghiệm lặp lại ở tam cá nguyệt cuối khi không xét nghiệm 3 tháng đầu ở một số thai tùy vào đội ngũ cán bộ bác sỹ nguy cơ cao hoặc thai phụ ở vùng có tỉ lệ lây lan HIV cao. để chẩn đoán xác định nhiễm HIV, cần áp dụng đủ một vài xét nghiệm theo công đoạn : xét nghiệm nhanh dương tính, tìm kháng thể kháng HIV (ELISA) dương tính, Western blot hoặc miễn dịch huỳnh quang quẻ (IFA) dương tính. lập tức cả lúc ELISA dương tính cũng chẳng thể chẩn đoán xác định nhiễm HIV nếu như không có kết quả Western blot hay IFA dương tính. Độ nhạy và độ đặc hiệu của ELISA và IFA hay Western blot >99%. những người dương tính giả khi cả hai thể nghiệm này dương tính là 1/59.000 trường hợp. ví như ELISA dương tính mà Western blot hoặc IFA âm tính, không chẩn đoán nhiễm HIV, không cần xét nghiệm lặp lại.

những yêu cầu của ACOG lúc Mọi người có thể phát hiện test nhanh HIV dương tính:

– trả lời có lẽ sẽ nhiễm HIV và khả năng truyền nhiễm cho trẻ.

– giảng giải ý nghĩa dừng của test nhanh, khả năng dương tính giả và tầm quan trọng của của một số thể nghiệm tiếp theo nhằm mục đích là chẩn đoán xác định.

– Cần chuyển đúng chuyên khoa để có thể ứng dụng xét nghiệm chẩn đoán xác định.

– tức thì khởi đầu cho sử dụng thuốc kháng virút đề phòng , không cần chờ kết quả của xét nghiệm chẩn đoán xác định để có thể giảm tối thiểu nguy cơ lây nhiễm cho trẻ.

– lúc bà mẹ đã sinh, việc sử dụng thuốc tùy vào kết quả của một vài xét nghiệm chẩn đoán xác định.

– Khuyên bà mẹ trì hoãn việc cho trẻ bú mẹ vào lúc có kết quả xác định. nếu như đích thực nhiễm HIV, không cho trẻ bú mẹ.

– nếu như mẹ đã được xác định nhiễm HIV, thông báo với thầy thuốc chuyên khoa nhi sơ sinh để có thể áp dụng một vài công đoạn chẩn đoán và chữa trị cho trẻ.
Theo dõi thai kỳ cho bà mẹ nhiễm HIV cần lưu ý một vài gì?

Theo dõi, chăm nom một thai phụ nhiễm HIV cần sự kết hợp của nhiều chuyên khoa như sản khoa, nội khoa, lây truyền và tâm lý. ngừng của bài viết sẽ không đề cập đến các thủ thuật đưa ra cách chữa đề phòng vì nhiều vấn đề phức tạp liên quan. Dưới góc nhìn của một chuyên gia sản khoa chỉ xin bàn đến một số vấn đề liên quan đến tầm soát lệch bội cho thai trong 3 tháng đầu thai kỳ. Trong một thai kỳ bình thường , khi nghi ngờ kì dị thể nhiễm sắc bằng xét nghiệm máu, đo khoảng sáng sau gáy (nuchal translucency – NT), bà mẹ mang thai được tư vấn làm một vài nghiệm pháp xâm lấn như sinh thiết gai nhau hoặc chọc ối. Với một thai phụ nhiễm HIV, những biện pháp này làm tăng khả năng lây nhiễm HIV cho trẻ. Liệu nồng độ nội tiết của một bà mẹ nhiễm HIV khác biệt so với bà mẹ không nhiễm do suy giảm miễn nhiễm , hoặc việc sử dụng thuốc kháng virút sẽ làm thay đổi nồng độ nội tiết dẫn tới chỉ định không cần phải có ?

Nhiễm HIV lúc mang thaiTất cả một vài thai phụ đều cần xét nghiệm tầm soát nhiễm HIV

những nghiên cứu về nồng độ nội tiết tầm soát lệch bội cho thai phụ nhiễm HIV cho kết quả rất trái ngược nhau. Nghiên cứu của Savvidov và cộng sự (2010) trên 90 thai phụ dương tính HIV và 450 thai phụ không nhiễm cho biết không có sự khác biệt có ý nghĩa Báo cáo nồng độ free b-hCG, PAPP-A và NT ở hai nhóm . khi phân tích phân hàng ngũ có và không tiêu dùng ART, nồng độ hiệu chỉnh (MoM) free b-hCG ở hàng ngũ có dùng thấp hơn đội ngũ không chữa và nhóm HIV âm tính. Về mặt lý thuyết, sự đổi thay này sẽ làm giảm khả năng dự báo khả năng trisomy 21 (hội chứng Down) và tăng có số người dự đoán trisomy 18 (hội chứng Edward). Kết quả này cũng tương tự như nghiên cứu của Brossard (2008). tuy vậy nhưng , tác giả cũng lưu ý rằng sự thay đổi nồng độ này không làm lệch lạc nhiều nguy cơ dự đoán kì dị của double test trên lâm sàng. Cơ chế bệnh học của sự đổi thay này vẫn chưa được chứng minh do chữa trị ART hay do bản thân nhiễm HIV gây nên. Giả thuyết được kể nhiều nhất là HIV gây thương tổn bánh nhau làm thay đổi chế tiết nồng độ PAPP-A và free b-hCG. Giả thuyết thứ hai là ART làm tổn thương trophoblast và làm tăng vận tải AFP qua nhau thai dẫn tới thay đổi khả năng lệch bội và nguy cơ dự đoán nguy cơ dị tật ống tâm thần khi tầm soát ở tam cá nguyệt II. Đây là một vài thông tin quan trọng lúc giải đáp cho thai phụ. lúc chỉ dựa đến NT, có khả năng dự đoán cao nhất vào 70% trường hợp trisomy 21, nếu NT đã được chứng minh không thay đổi ở đội ngũ không nhiễm HIV và đội ngũ nhiễm HIV có hay không điều trị ART, trị giá của một vài nồng độ nội tiết này giúp khẳng định thêm khả năng kì dị ở bà mẹ mang thai khi NT tăng so với độ tuổi thai nhi .

Tóm lại, với một số chứng cớ hiện có cho biết vẫn nên thực hiện tầm soát nguy cơ thất thường thể nhiễm sắc bằng một số xét nghiệm hiện có cho bà mẹ dương tính HIV như một số thai phụ thông thường và tự tin đến trị giá tiên lượng của một số kết quả ấy . Trong tương lai , các kỹ thuật tốt hơn như chẩn đoán di truyền tiền làm tổ (PGD) có khả năng thực hiện rộng rãi giúp một vài bà mẹ nhiễm HIV tránh khỏi rủi ro lây lan cho con mình bằng một số thủ thuật xâm lấn.